Trong xã hội hiện đại, nguồn nhân lực là nguồn lực quan trọng nhất đối với sự phát triển của bất kì từ tổ chức cho đến quốc gia, dân tộc nào, bởi phải có những con người đủ khả năng, trình độ mới khai thác tốt các nguồn lực khác. Chính vì thế, nhiều nước trên thế giới đã có những chính sách phát triển nguồn nhân lực trong nước và thu hút nguồn nhân lực chất lượng cao từ các nước khác.
Giáo dục – đào tạo: kinh nghiệm ở một số nước
Ở Mỹ, với một chiến lược dài hạn, kinh phí cho giáo dục đại học của Mỹ đến từ các nguồn khác nhau, như các công ty, tổ chức nhà nước, các tổ chức phi chính phủ, tổ chức tôn giáo, nhà từ thiện… Nguồn kinh phí dồi dào mang lại cho các trường khả năng xây dựng cơ sở vật chất hiện đại, thuê giảng viên giỏi cũng như xây dựng quỹ hỗ trợ sinh viên. Trong giáo dục đại học ở Mỹ, tính cạnh tranh giữa các trường rất khốc liệt. Nếu sinh viên vào được các trường đại học tốt, nổi tiếng và học giỏi, cơ hội có việc làm sẽ tăng lên rất nhiều.
Để phát triển nguồn nhân lực, Mỹ rất coi trọng môi trường sáng tạo và khuyến khích phát triển nhân tài, bồi dưỡng và thu hút nhân tài trong nhiều lĩnh vực. Chiến tranh thế giới thứ hai đã mang lại cho Mỹ – nước duy nhất trên thế giới, cơ hội thu hút nguồn chất xám rất lớn, đó là rất nhiều các nhà khoa học, bác học giỏi từ châu Âu và nhiều nước khác đã nhập cảnh vào Mỹ. Thực tế này trả lời cho câu hỏi, tại sao hiện nay Mỹ là một trong những nước có nhiều nhà khoa học hàng đầu thế giới trong nhiều lĩnh vực.
Tại Cộng hòa Séc, để đón trước cơ hội và thúc đẩy hội nhập thành công vào Liên minh châu Âu (EU), Séc đã xây dựng và hoàn thành Chiến lược phát triển nguồn nhân lực (tháng 12-2000). Chiến lược này là một bộ phận cấu thành của Chương trình Thị trường lao động và phát triển nguồn nhân lực. Trong các chiến lược thành phần, đáng chú ý có chiến lược phổ cập tiếng Anh, chiến lược cải thiện nhân lực hành chính công, chiến lược phát triển giáo dục đại học – cao đẳng và liên kết với hoạt động nghiên cứu, chiến lược phát triển đội ngũ giáo viên, chiến lược phát triển học suốt đời…
Ở châu Á, Nhật Bản là một trong những nước đi đầu trong phát triển nguồn nhân lực. Xuất phát từ việc xác định rằng, nước Nhật nghèo tài nguyên thiên nhiên, để phát triển, chỉ có thể trông chờ vào chính mỗi người dân Nhật Bản, Chính phủ nước này đã đặc biệt chú trọng tới giáo dục – đào tạo, thực sự coi đây là quốc sách hàng đầu. Theo đó, chương trình giáo dục đối với cấp tiểu học và trung học cơ sở là bắt buộc; tất cả học sinh trong độ tuổi từ 6 đến 15 tuổi được học miễn phí. Kết quả là, tỷ lệ học sinh thi đỗ vào các trường đại học, cao đẳng ở nước này ngày càng nhiều. Nhật Bản trở thành một trong những cường quốc giáo dục của thế giới.
Về sử dụng và quản lý nhân lực, Nhật Bản thực hiện chế độ lên lương và tăng thưởng theo thâm niên. Nếu như ở nhiều nước phương Tây, chế độ này chủ yếu dựa vào năng lực và thành tích cá nhân, thì ở Nhật Bản, hầu như không có trường hợp cán bộ trẻ tuổi, ít tuổi nghề lại có chức vụ và tiền lương cao hơn người làm lâu năm.
Tại Hàn Quốc, chính sách giáo dục được xây dựng phù hợp với đòi hỏi của nền kinh tế. Đây là nội dung quan trọng trong chiến lược phát triển nguồn nhân lực của quốc gia này. Năm 1950, Chính phủ Hàn Quốc chủ trương xóa mù chữ cho toàn dân. Những năm sau đó, hệ thống giáo dục dần được đẩy mạnh như: phát triển giáo dục hướng nghiệp trong các trường trung học (năm 1960); các trường dạy nghề kỹ thuật (năm 1970); đẩy mạnh hoạt động nghiên cứu và giáo dục trên lĩnh vực khoa học cơ bản và công nghệ, nâng cao chất lượng giáo dục và học suốt đời. Năm 1992, Hàn Quốc thực hiện cải cách giáo dục với mục tiêu tái cấu trúc hệ thống giáo dục hiện có thành một hệ thống giáo dục mới, bảo đảm cho người dân được học suốt đời. Tháng 12-2001, Chính phủ Hàn Quốc công bố Chiến lược quốc gia lần thứ nhất về phát triển nguồn nhân lực giai đoạn 2001-2005. Tiếp đó, Chiến lược quốc gia lần thứ hai về phát triển nguồn nhân lực thời kỳ 2006-2010 được xây dựng và thực hiện hiệu quả.
Nội dung chính của các chiến lược này đề cập tới sự tăng cường hợp tác giữa các doanh nghiệp, trường đại học và các cơ sở nghiên cứu; nâng cao trình độ sử dụng và quản lý nguồn nhân lực, nâng cao tính chuyên nghiệp của nguồn nhân lực trong khu vực công; xây dựng hệ thống đánh giá và quản lý kiến thức, kỹ năng và công việc; xây dựng kết cấu hạ tầng thông tin cho phát triển nguồn nhân lực; xây dựng và phát triển thị trường tri thức…
Tại Trung Quốc, Chính phủ đang hết sức quan tâm đến việc đào tạo và sử dụng hiệu quả nguồn nhân lực hiện có trong nước, nhằm nâng cao chất lượng nguồn lực này khi chuyển dần sang kinh tế tri thức.
Năm 2003, Trung Quốc đã đề ra Chiến lược tăng cường hơn nữa công tác bồi dưỡng, đào tạo nhân tài nhằm thực hiện mục tiêu xây dựng toàn diện xã hội khá giả được đề ra trong Đại hội XVI của Đảng Cộng sản Trung Quốc. Nội dung của chiến lược là: lấy nhân tài chấn hưng đất nước, xây dựng đội ngũ đông đảo nhân tài có chất lượng cao; kiên quyết quán triệt phương châm tôn trọng lao động, trí thức, tôn trọng nhân tài và sự sáng tạo, lấy thúc đẩy phát triển làm xuất phát điểm cơ bản của công tác nhân tài, điều chỉnh nhân tài một cách hợp lý, lấy xây dựng năng lực làm điều cốt lõi, ra sức đẩy mạnh công tác bồi dưỡng nhân tài, kiên trì đổi mới sáng tạo, nỗ lực hình thành cơ chế đánh giá và sử dụng nhân tài một cách khoa học…
Trong khu vực Đông Nam Á, Sin-ga-po được coi là hình mẫu về phát triển nguồn nhân lực. Thực tế đã minh chứng, quốc gia nhỏ bé này đã rất thành công trong việc xây dựng một đất nước có trình độ dân trí cao và hệ thống giáo dục phát triển hàng đầu châu Á.
Hệ thống giáo dục của nước này rất linh hoạt và luôn hướng đến khả năng, sở thích cũng như năng khiếu của từng học sinh nhằm giúp các em phát huy cao nhất tiềm năng của mình. Bên cạnh việc ứng dụng các tiến bộ của khoa học – công nghệ mới vào giảng dạy, chương trình đào tạo của Sin-ga-po luôn chú trọng vào giáo dục nhân cách, truyền thống văn hóa dân tộc.
Chủ trương thu hút sinh viên quốc tế đến học tập, Chính phủ Sin-ga-po miễn xét thị thực cho du học sinh quốc tế, không đòi hỏi phải chứng minh tài chính, chi phí học tập vừa phải, môi trường học tập hiện đại, các ngành nghề đào tạo đa dạng… Nhà nước Sin-ga-po chỉ đầu tư vào rất ít trường công lập để có chất lượng mẫu mực, có chính sách tín dụng thích hợp để thu hút đào tạo nhân tài. Đối với khối ngoài công lập, Chính phủ tạo điều kiện để phát triển, khuyến khích việc liên thông, liên kết với nước ngoài, mời gọi các đại học quốc tế đặt chi nhánh…
Việt Nam với việc đổi mới nền giáo dục hiện tại
Trong nhiều năm qua, mặc dù giáo dục nước ta đã đạt được những thành tựu nhất định, song nhìn chung, vẫn còn tồn tại nhiều nghịch lý, chưa theo kịp trình độ phát triển của giáo dục thế giới, thậm chí còn nhiều tiêu cực nảy sinh trong hệ thống giáo dục. Bước vào năm học mới, bên cạnh niềm vui đưa con, nhìn con đến trường, hân hoan với sự trưởng thành của con cái, là nỗi băn khoăn, lo lắng, của các bậc phụ huynh khi nghĩ đến những việc phải làm đối với việc học tập của con trong suốt cả năm học.
Thực tế cho thấy, học sinh ở bậc tiểu học, trung học cơ sở, trung học phổ thông học căng thẳng, chịu “tải” nhiều hơn ở bậc học đại học. Học sinh và phụ huynh đều lao vào cuộc chạy đua trang bị kiến thức với sự mệt mỏi và cảm giác “vô lý”, nhưng lại không yên tâm để dừng lại. Học sinh phải học và nhớ nhiều kiến thức lý thuyết nhưng khi học xong, hoặc không nhớ, hoặc chóng quên, trong khi kiến thức thực tế, cách cư xử trong gia đình, kỹ năng làm việc theo nhóm, cách giao tiếp, hành xử trong cộng đồng…, lại được đào tạo, giáo dục không tương xứng.
“Chúng ta không thiếu việc làm mà thiếu cử nhân làm được việc”. Nhận xét khái quát này cho thấy việc đào tạo học để có nghề và ra làm được nghề có rất nhiều bất cập. Điều này tồn tại đã lâu và được nói đến nhiều nhưng vẫn chưa thể khắc phục. Chính vì thế mà hằng năm Việt Nam có khoảng 223.000 sinh viên tốt nghiệp đại học hệ công lập và 22.700 sinh viên tốt nghiệp đại học hệ dân lập (theo số liệu của Tổng cục Thống kê), nhưng tỷ lệ sinh viên sau khi tốt nghiệp ra trường bị thất nghiệp là 63% (theo số liệu của Bộ Giáo dục và Đào tạo).
Một hậu quả tiếp theo là, vì phần đông cử nhân ra trường vẫn mơ hồ về định hướng nghề nghiệp, mục tiêu mong muốn đạt tới, hình mẫu lý tưởng trong nghề nghiệp của mình, thiếu kiến thức thực tế và kỹ năng hành nghề, cũng như kỹ năng thuyết trình, làm việc nhóm… làm cho nhiều nhà tuyển dụng thấy việc tuyển các cử nhân vào các vị trí làm việc rất khó khăn.
Một vấn đề nữa là, việc đào tạo ở bậc học đại học chưa thực sự gắn chặt với nhu cầu phát triển kinh tế – xã hội của đất nước, việc lựa chọn nghề nghiệp theo học mang nhiều cảm nhận chủ quan. Dự báo quốc gia về nhu cầu lao động trong tương lai chưa có, vì thế dẫn tới tình trạng mất cân đối trong đào tạo nghề, và tiếp theo sẽ là thừa cung lao động trong một số nghề và thiếu lao động trong nhiều nghề khác – những nghề mà hiện nay rất ít học sinh nộp hồ sơ dự học, nhưng lại rất cần thiết đối với sự phát triển của đất nước.
Từ thực tiễn trong nước và kinh nghiệm của thế giới có thể thấy rằng, việc xây dựng và phát triển nguồn nhân lực phù hợp với điều kiện thực tế của nước ta có ý nghĩa hết sức quan trọng và cũng là yêu cầu bức thiết hiện nay.
Thứ nhất: Phải đổi mới căn bản và toàn diện nền giáo dục theo hướng chuẩn hóa, hiện đại và hội nhập quốc tế, trong đó, đổi mới cơ chế quản lý giáo dục, phát triển đội ngũ giáo viên và cán bộ quản lý là khâu then chốt. Để hiện thực hóa chủ trương, quan điểm của Đảng, cần xây dựng chiến lược phát triển nguồn nhân lực gắn với chiến lược phát triển kinh tế – xã hội, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, hội nhập kinh tế quốc tế. Đây không chỉ là trách nhiệm của các nhà hoạch định và tổ chức thực hiện chính sách, mà còn là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị và của mỗi cá nhân. “Bản thân người học phải tự thay đổi chính mình. Cần xác định mục tiêu và định hướng nghề nghiệp cụ thể, lâu dài…”, từ đó tập trung tích lũy và xây dựng kho kiến thức, kỹ năng cần thiết cho bản thân.
Kinh nghiệm của nhiều nước cho thấy rõ, coi trọng và quyết tâm thực thi chính sách giáo dục – đào tạo phù hợp là nhân tố quyết định tạo ra nguồn nhân lực chất lượng cao cho sự phát triển nhanh và bền vững.
Thứ hai, song song với việc phát hiện, bồi dưỡng và trọng dụng nhân tài, phát triển nguồn nhân lực cần đi đôi với xây dựng và hoàn thiện hệ thống giá trị của con người trong thời đại hiện nay như trách nhiệm công dân, tinh thần học tập, trau dồi tri thức; có ý thức và năng lực làm chủ bản thân, làm chủ xã hội; sống có nghĩa tình, có văn hóa, có lý tưởng. Đây cũng là những giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt Nam, rất cần được tiếp tục phát huy trong bối cảnh hội nhập quốc tế, nhất là đối với thế hệ trẻ.
Thứ ba, phát triển nguồn nhân lực phải gắn với nâng cao chất lượng chăm sóc sức khỏe người dân, bảo đảm an sinh xã hội. Đại hội XI đã đề cập tới việc cụ thể hóa những hoạt động của lĩnh vực này nhằm nâng cao chất lượng và hiệu quả chăm sóc sức khỏe nhân dân, đáp ứng yêu cầu của quá trình đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với kinh tế tri thức trong bối cảnh hội nhập, cạnh tranh gay gắt và yêu cầu cường độ lao động cao.
Phát triển nguồn nhân lực, tạo động lực thúc đẩy tăng trưởng kinh tế
Trong xu thế toàn thế giới bước vào cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0, tập trung chủ yếu vào sản xuất thông minh, nguồn nhân lực chất lượng cao ngày càng thể hiện vai trò quyết định trong phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
Từ thế kỷ thứ XVI, nhà kinh tế người Anh William Petty đã cho rằng: “Lao động là cha, đất đai là mẹ của mọi của cải vật chất”. Nhà tương lai Mỹ Avill Toffer cũng đề cao vai trò của nguồn lao động “Tiền bạc tiêu mãi cũng hết, quyền lực rồi sẽ mất; Chỉ có trí tuệ của con người khi sử dụng không những không mất đi mà còn lớn lên”.
Như vậy, nguồn nhân lực là nguồn lực chính quyết định quá trình tăng trưởng và phát triển kinh tế - xã hội, vì là nhân tố quyết định việc khai thác, sử dụng, bảo vệ và tái tạo các nguồn lực khác.
Trong thời gian qua, Việt Nam đẩy nhanh tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa để nhanh chóng hội nhập vào thị trường quốc tế. Thế mạnh lớn nhất của Việt Nam trong tương quan với các quốc gia khác là nguồn lao động trẻ dồi dào, là lực lượng có khả năng tiếp thu nhanh nhất về công nghệ, khoa học.
Tuy nhiên, trong bối cảnh Cách mạng công nghiệp 4.0 bùng nổ với sự ứng dụng rộng rãi các thành tựu của công nghệ thông tin, tự động hóa, năng suất lao động Việt Nam lại chưa theo kịp các yêu cầu đặt ra.
Mặc dù, Việt Nam đang trong giai đoạn dân số vàng, có tỷ lệ người đang trong độ tuổi lao động chiếm tỷ lệ cao nhưng năng suất lao động Việt Nam vẫn ở mức thấp.
Điều đáng quan tâm là hiện nay, các quốc gia khác đã tự ý thức không ngừng cải tiến và phát triển kinh tế trong bối cảnh toàn cầu hóa bằng những đề án rất công phu trong các lĩnh vực giáo dục, sản xuất, dịch vụ... Với mục tiêu hàng đầu là nâng cao chất lượng đội ngũ lao động, nếu Việt Nam không chú trọng mục tiêu này thì khoảng cách với các nước khác trong khu vực và thế giới sẽ ngày càng nới rộng hơn.
Trong rất nhiều nguyên nhân khiến năng suất lao động tại Việt Nam còn thấp, có thể kể đến 4 nguyên nhân sau: Trình độ kỹ thuật, công nghệ còn thấp và lạc hậu; Tỷ trọng lao động khu vực nông, lâm, thủy sản vẫn ở mức cao; Chất lượng nguồn nhân lực còn thấp; chế độ đãi ngộ cơ bản cho người lao động còn thấp.
Thứ nhất, trình độ công nghệ, kỹ thuật còn thấp và lạc hậu
Trình độ công nghệ, kỹ thuật số ở Việt Nam đã cải thiện dần qua các năm gần đây nhưng nhìn chung việc ứng dụng khoa học, công nghệ vẫn còn nhiều hạn chế. Tỷ lệ đầu tư cho khoa học công nghệ trên GDP, từ năm 2001- 2011 của Việt Nam chỉ tăng từ 0,48% lên 0,51%. Giai đoạn 2011-2013, tỷ lệ này chỉ đạt khoảng 0,4%.
So sánh với các nước trong khu vực ASEAN, đầu tư cho nghiên cứu khoa học trên đầu người ở Việt Nam vẫn là rất thấp. Ở Việt Nam, đầu tư cho nghiên cứu khoa học trên đầu người là 3,1 USD/người dân năm 2012 thì ở Thái Lan là 22 USD/người dân, Malaysia là 86 USD/người dân...
Hầu hết các DN Việt Nam có quy mô vừa và nhỏ, nguồn vốn còn hạn hẹp; công nghệ sản xuất lạc hậu và trung bình; cơ sở vật chất còn nghèo nàn; trình độ khoa học công nghệ còn chưa cao nếu không muốn nói là lạc hậu, lỗi thời; trình độ, chất lượng lao động chưa đạt yêu cầu; năng lực cạnh tranh còn thấp… Trong khi đó, các DN nước ngoài lại có sự hỗ trợ mạnh về tài chính, đầu tư những máy móc thiết bị, dây chuyền công nghệ tiên tiến, giúp quá trình sản xuất diễn ổn định và năng suất lao động tăng cao.
Tại một số khu công nghiệp, theo khảo sát, tỷ lệ DN có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) mang công nghệ hiện đại, tiên tiến vào Việt Nam chỉ đạt khoảng 5%, còn lại là công nghệ truyền thống, hoặc quá lạc hậu, hoặc chủ yếu tận dụng nguồn nhân lực giá rẻ của Việt Nam. Điều này cho thấy, năng lực cạnh tranh về công nghệ của Việt Nam vẫn còn quá yếu.
Cụ thể, ở một số ngành nghề điển hình như sau: Trong ngành than, khai thác than lộ thiên ở hầm lò, khâu chiếm hơn một nửa sản lượng (45% - 56%) thì cơ giới hóa chỉ đạt khoảng 2%. Đối với ngành chế biến, chế tạo, DN vẫn còn sử dụng công nghệ lạc hậu, lỗi thời chiếm đến 88% vào năm 2012. Nhiều công đoạn vẫn còn khá thô sơ, tốn nhiều chi phí nhân công không cần thiết vì chưa áp dụng được công nghệ hiện đại, tiên tiến vào quy trình hoạt động...
Thứ hai, tỷ trọng lao động khu vực nông, lâm, thủy sản vẫn ở mức cao
Theo báo cáo của Tổng cục Thống kê, trong giai đoạn 2005-2015, tỷ trọng lao động trong khu vực nông nghiệp (giảm từ 55,09% năm 2005 xuống còn 45% năm 2015, công nghiệp tăng từ 17,59 lên 21,78%; dịch vụ tăng từ 27,32% lên 33,03%). Trong những năm gần đây, cơ cấu kinh tế và cơ cấu lao động có chuyển dịch tích cực nhưng tỷ trọng lao động khu vực nông, lâm nghiệp, thủy sản vẫn ở mức cao, chiếm tới 49%.
Tuy nguồn lực lao động làm việc trong khu vực nông lâm thủy sản khá đông nhưng mức đóng góp của khu vực này vào tăng trưởng kinh tế lại thấp nhất. Điển hình, năm 2016, tăng trưởng GDP là 6,21% nhưng mức tăng của khu vực nông lâm thủy sản chỉ đạt 1,36% và chỉ đóng góp 0,22% vào mức tăng chung.
Thứ ba, trình độ chuyên môn kỹ thuật, tay nghề và kỹ năng mềm của lao động còn thấp
Theo Tổng cục Thống kê, quý I/2016, lực lượng lao động từ 15 tuổi trở lên có chuyên môn kỹ thuật (gồm những người có bằng cấp/chứng chỉ từ 3 tháng trở lên) chiếm tỷ lệ 20,71%, tăng 2,22% so với quý IV/2015.
Nhìn chung, tỷ lệ lao động có chuyên môn kỹ thuật chỉ chiếm khoảng 20% lực lượng lao động và đây là tỷ lệ quá thấp đối với một đất nước đang đẩy mạng công nghiệp hóa, hiện đại hóa như Việt Nam. Năm 2015, Ngân hàng Thế giới (WB) đánh giá chất lượng nhân lực Việt Nam xếp thứ 11/12 so với các nước châu Á.
Thứ tư, chế độ đãi ngộ cơ bản (lương, thưởng, phúc lợi xã hội) cho người lao động còn thấp
Thực tế cho thấy, tiền lương là một trong những công cụ kinh tế quan trọng trong quản lý lao động, nâng cao tiền lương cơ bản cũng là cách để thúc đẩy người lao động nâng cao trình độ và khả năng lao động của mình.
Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO) chỉ ra rằng, mức lương cho người lao động và năng suất lao động là hai yếu tố có quan hệ tỷ lệ thuận với nhau. Vì vậy, việc điều tra và đưa ra chính sách tiền lương tối thiểu có vai trò rất quan trọng tác động đến năng suất của người lao động.
Một số kiến nghị
Để khắc phục những tồn tại, hạn chế khiến năng suất lao động tại Việt Nam còn thấp, cần triển khai một số biện pháp sau:
Đối với Nhà nước:
- Tập trung khai thác hiệu quả các cam kết thương mại, hiệp định song phương, đa phương đã và đang ký kết để mở rộng được thị trường, tận dụng được các nguồn lực về vốn, công nghệ, kỹ năng... từ bên ngoài, từng bước chuyển hóa thành vốn tích lũy của Việt Nam, nhằm đẩy nhanh quá trình chuyển dịch kinh tế, rút ngắn được khoảng cách giữa Việt Nam và các nước tiên tiến trên thế giới, tạo thêm cơ hội việc làm cho nguồn nhân lực Việt Nam.
- Hoàn thiện các thể chế, chính sách trong lĩnh vực sản xuất kinh doanh nhằm tạo điều kiện thuận lợi để phát triển kinh tế khu vực tư nhân, tạo “sân chơi” bình đẳng cho mọi loại hình DN, cần tái cơ cấu các DN nhà nước nhanh chóng để có có thêm nguồn vốn đầu tư cho nguồn nhân lực.
- Đối với lĩnh vực đào tạo, giáo dục: Cần nâng cao chất lượng đào tạo của các cơ sở giao dục, gắn đào tạo kiến thức với thực tập, thực hành nghề tại các cơ sở DN.
Tập trung đào tạo các ngành nghề chất lượng cao: Công nghệ sinh học, công nghệ thông tin, ứng dụng tin học... Đổi mới và cập nhật những kiến thức mới, các tiêu chuẩn và kỹ năng nghề nghiệp mới phù hợp với bối cảnh quốc gia và xu thế phát triển của các nước khác khi cách mạng công nghiệp 4.0 diễn ra.
Đối với cơ sở đào tạo:
Cần đổi mới toàn diện về hệ thống kiến thức và phương pháp đào tạo; Lấy người học làm trung tâm, đào tạo nhằm hướng tới phát huy năng lực làm việc, tính sáng tạo của người lao động; Giảng dạy lý thuyết đi kèm với thực hành thực tế để phát triển các kỹ năng mềm của người lao động, tăng tính thích ứng, thích nghi với môi trường làm việc thực tế.
Các cơ sở giáo dục cần phát triển hơn nữa vào các ngành nghề chất lượng cao: như lĩnh vực kỹ thuật số, công nghệ thông tin, năng lượng, vật liệu mới, công nghệ sinh học... để giúp người lao động có thể làm chủ khi cuộc cách mạng số hóa bùng nổ như hiện nay.
Đối với người lao động:
Cần xác định rằng Cách mạng công nghiệp 4.0 diễn ra là xu thế tất yếu. Cuộc cách mạng này sẽ đem lại cho xã hội loài người nhiều thành tựu vĩ đại hơn và giúp cho chất lượng cuộc sống con người ngày càng nâng cao hơn.
Người lao động bắt buộc phải thích nghi bằng cách chủ động học tập, rèn luyện để có đủ năng lực chuyên môn và kỹ năng mềm cần thiết để đón đầu các kỹ thuật, công nghệ mới áp dụng vào nền kinh tế thông minh và công nghiệp hóa.
Cách mạng công nghiệp 4.0 vừa là một cơ hội vừa là một thách thức rất lớn đối với mỗi quốc gia, nếu không tự đổi mới, tự vượt qua chính mình thì Việt Nam sẽ mãi đứng ở vị trí phía sau các quốc gia khác. Hơn lúc nào hết, người lao động cần phải xóa bỏ những tư duy, tập quán, lề thói cũ để tự học, tự trang bị kiến thức mới, kỹ năng mới cho nhu cầu phát triển.
Hotline + Viber + Zalo: 0972 87 15 18 ( Ms. Nguyệt )
Email: nguyethey@gmail.com
Website: https://maula.vn
SP: https://www.youtube.com/watch?v=VLUrkEZInDw
Bh: https://trungdan.com/may-dong-phuc-gia-re-tai-tphcm.html
Bản đồ: https://goo.gl/maps/p4BqngdP4tH2
https://www.heytv.vn/
0 nhận xét:
Đăng nhận xét